Thuốc điều trị bệnh tim mạch là những thuốc có tác dụng đến hoạt động của tim và mạch máu để điều hòa hoạt động chúng, kiểm soát nếu có các dấu hiệu do bệnh tim gây ra, đồng thời ngăn ngừa các biến chứng.
Những lợi ích của thuốc tim mạch:
Hiện nay thường dùng 8 nhóm thuốc sau:
Là nhóm thuốc hỗ trợ cho tim, giúp cho cơ tim co bóp mạnh hơn, tuần hoàn cho tim được thuận lợi hơn.
Các thuốc thường sử dụng: Digoxin, Digitoxin, Ouabain.
Nhóm thuốc này có tác dụng giãn mạch, giúp cho cơ tim nhận được nhiều oxy hơn, tuần hoàn cho tim được thuận lợi hơn, việc tưới máu được trở lại bình thường, ngăn chặn các biến chứng có thể xảy ra sau khi bị nhồi máu cơ tim.
Nhóm thuốc này gồm hai nhóm nhỏ hơn là nhóm điều trị đau thắt ngực và nhóm điều trị nhồi máu cơ tim.
Hiện nay nhóm thuốc này có các loại phổ biến như: Nitroglycerin, Isosorbid.
Nhóm thuốc này giúp cho chu chuyển tim được ổn định bình thường trở lại.
Những loại thuốc thường được sử dụng hiện nay để điều trị loạn nhịp tim: Amiodarone, Quinidine, Digoxin, Beta blocker.
Có tác dụng làm giảm huyết áp, gồm hai nhóm chính:
Nhóm thuốc này có tác dụng làm giảm mỡ trong máu của bệnh nhân xuống, làm cho quá trình tạo lipid ít hơn, tăng quá trình thoái hóa mỡ hoặc phân bố lại lượng mỡ trong cơ thể bệnh nhân.
Các thuốc thường được sử dụng hiện nay là: Fenofibrate, Atorvastatin.
Nhóm thuốc này có tác dụng kích thích hệ adrenergic, qua đó khiến mạch của bệnh nhân co lại, huyết áp tăng lên, tim đập nhanh hơn.
Các thuốc thường được sử dụng: Adrenalin, Dopamin.
Việc có các cục máu đông trong máu sẽ làm cho máu di chuyển khó khăn hơn, từ đó có thể dẫn đến các tình trạng như: nhồi máu cơ tim, đột quỵ, rung tâm nhĩ,… Nhóm thuốc chống đông máu sẽ khắc phục được tình trạng này, nó có tác dụng ngăn cản quá trình hình thành các cục máu đông trong mạch máu.
Nhóm thuốc này lại được chia ra làm 2 loại:
Thuốc chống đông máu cũ:
Thuốc chống đông máu mới: Apixaban, Dabigatran, Rivaroxaban, Edoxaban: đường uống. Khi sử dụng các thuốc mới này, bệnh nhân có thể không cần phải xét nghiệm máu liên tục.
Nhóm thuốc này có tác dụng làm giãn hoặc co các mạch nhỏ, làm cho thành mạch máu bền vững hơn, quá trình tưới máu cho mô được diễn ra đều đặn, giảm khả năng bị tai biến mạch máu.
Các loại hay được sử dụng hiện nay: Vinpocetin, Piracetam.
Hiện nay có một bộ phận người dân khi tự thấy mình có vấn đề về tim mạch là tự ý đi mua thuốc mà không đi khám để được bác sĩ chỉ dẫn. Đây là một thực trạng rất nghiêm trọng và có thể gây nguy hiểm cho bệnh nhân.
Khi bệnh nhân đi khám, bác sĩ mới nắm được tình trạng của bệnh nhân, từ đó đưa ra các chỉ định dùng thuốc thích hợp, tránh được các hậu quả không mong muốn như trên.
Nếu xuất hiện các tác dụng phụ dai dẳng, thì phải thông báo ngay cho bác sĩ biết.
Phải có thời gian để thuốc tim mạch giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình điều trị. Vì vậy, khi bệnh nhân thấy các triệu chứng đã thuyên giảm cũng không được tự ý dừng thuốc mà vẫn phải tiếp tục uống thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ.
Bạn có thể tái khám và đề đạt ý kiến muốn dừng thuốc. Bác sĩ thường sẽ không cho phép bệnh nhân dừng thuốc ngay mà sẽ điều chỉnh liều dùng thấp xuống tùy từng trường hợp cụ thể.
Bệnh nhân cần đi khám lại và được theo dõi bởi bác sĩ thì quá trình điều trị mới đạt được tốt nhất.
Chỉ bác sĩ mới được quyết định có đổi sang thuốc khác hay không.
Bệnh nhân muốn thay đổi về việc dùng thuốc phải hỏi ý kiến của bác sĩ và do bác sĩ quyết định.
Bệnh nhân tự ý đổi thuốc có thể dẫn đến nhiều tình trạng nghiêm trọng như: ngộ độc thuốc, bệnh nặng hơn.
Muốn quá trình điều trị đạt được hiệu quả cao thì ngoài việc dùng thuốc, bệnh nhân cần phải có lối sống và làm việc một cách hợp lí, giải tỏa stress; tăng cường tập thể dục ở cường độ thích hợp, không hút thuốc lá, ăn ít muối và ít chất béo đi.
Kết hợp giữa các biện pháp dùng thuốc và không dùng thuốc một cách hợp lý sẽ giúp cho bệnh nhân kiểm soát được các vấn đề về tim mạch của bản thân được chủ động và hiệu quả nhất.